Chiến tranh với nhà Minh Hồ Quý Ly

Bối cảnh trước cuộc chiến

Từ năm 1384 nhà Minh xuất binh đánh Vân Nam và các man làm phản ở biên giới. Lại sai sứ sang đòi Đại Việt chu cấp lương thực, voi chiến, nhà sư, đàn bà xoa bóp, người bị thiến hoạn, giống cây trồng... Những hành động gây áp lực về ngoại giao này kéo dài cho đến khi xảy ra cuộc chiến. Đại Việt phía Nam chiến tranh liên miên với Chiêm Thành, trong nước rối loạn, nên phải nhượng bộ.[60]

Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần từ năm 1400, trước và sau khi lên ngôi ông đã cố gắng đưa ra những sách lược nhằm đối phó với nhà Minh, cuộc chiến mà ông biết nó sẽ xảy ra. Mười tháng sau khi lên ngôi, Quý Ly phát động cuộc chiến với Chiêm Thành, nhằm tránh thế phải đối đầu với kẻ địch ở hai mặt. Quân Chiêm thua trận, phải cắt đất hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy cho Đại Ngu. Năm 1395, dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, xây thành ở động An Tôn, cho đào hào, trồng tre gai xung quanh... để phòng thủ. Làm sổ hộ tịch, biên hết vào sổ nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, không cho phép người lưu vong mà vẫn có trong sổ, làm sổ xong nhân khẩu từ 15 đến 60 gấp bội so với trước, nên từ năm 1402 điểm binh rất nhiều.[61]

Quân Minh sang lần thứ nhất và bị thua trận

Năm 1406, nhà Minh sai hai tướng Hàn Quan và Hoàng Trung đem 10 vạn quân Quảng Tây xâm lược Đại Ngu, mượn cớ đưa Trần Thiêm Bình về nước. Ngày 8 tháng 4, ở ải Lãnh Kinh (Hà Bắc cũ), quân Minh đấu với quân Đại Ngu, quân Đại Ngu thất bại; sáng hôm sau, quân thủy bộ giao chiến, Nhị vệ đại tướng Phạm Nguyên Khôi, chỉ huy quân Chấn Cương Chu Bỉnh Trung,... bị giết. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng may chạy thoát lên bờ, do quân Đại Ngu nghĩ quân Minh ít quân, coi thường đối thủ. Duy có Tả Thánh Dực quân Hồ Vấn kéo quân Vũ Cao tới đánh bại quân Minh.[62]

Tướng Minh Hoàng Trung liệu thế, đến trống canh hai nửa đêm trốn về. Tướng Tả Thánh Dực quân Hồ Vấn, chỉ huy quân Thánh Dực Bắc Giang Trần Đĩnh đã chặn ở ải Chi Lăng từ trước. Quân Minh bèn đem giao nộp Trần Thiêm Bình, dân thư hàng xin được tha. Hồ Xạ đồng ý, cho quân Minh trở về Trung Quốc. Vua Hồ Hán Thương thưởng công cho các tướng, tự mình không nhận biểu mừng.[62]

Quân Minh sang lần thứ hai

Tháng 9 năm 1406, lấy cớ "Phù Trần diệt Hồ", nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh Đại Ngu. Quân Minh chia làm hai đường, cánh quân do Trương Phụ cầm 40 vạn quân đánh vào ải Pha Lũy (tức ải Nam Quan), cánh quân do Mộc Thạnh cầm 40 vạn quân đánh vào ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang).[63]

Về sách lược, viên hàng tướng Chiêm Thành Bố Đông khuyên với Hồ Quý Ly nên đưa quân lên biên giới đón đánh ngay quân Minh, không cho tiến sâu vào, để quân Minh ỷ vào trường binh và thông được đường tiến quân, nhưng các tướng không nghe.[64] Theo K.W Taylor, nhà Hồ đã từ bỏ phần lớn khu vực Đông Kinh (Thăng Long) và phòng thủ ở bờ nam sông Hồng.[65] Trương Phụ viết bảng văn kể tội họ Hồ, cho thả trôi theo dòng nước, nhiều người đọc được, chán nản vì chính sự hà khắc của họ Hồ không còn bụng dạ chiến đấu nữa. Theo Minh sử, gia đình Mạc Thúy, Mạc Viễn, Trần Huân đã dẫn theo 10.000 người ở Đông Kinh mà phản lại họ Hồ, người kinh lộ phần nhiều theo quân Minh phản lại họ Hồ.[63]

Trước các mũi tiến công của địch, quân đội Đại Ngu có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của Đại Ngu cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm cố đô Thăng Long. Quân Đại Ngu lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo các thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.

Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ Quý Ly lại một phen tan tác. Tướng Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu:

"Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn."

Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hồ Quý Ly http://books.google.com/books?id=IFNrC0lVLvAC http://books.google.com/books?id=yzWsAAAAIAAJ http://suhoctre.com/cac-xung-dot-vung-mien-giua-ca... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb135553564 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb135553564 http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu... http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000450938638 http://www.viethoc.org/eholdings/sach/dvsktt.pdf http://www.viethoc.org/eholdings/sach/kdvstgcm.pdf http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104